Bài 4: Quốc tế thứ hai
1. Phong trào công nhân cuối thế kỉ XIX
- Nguyên nhân
+ Đội ngũ công nhân tăng về số lượng và chất lượng, có điều kiện sống tập trung.
+ Do sự bóc lột nặng nề của giai cấp tư sản, chính sách chạy đua vũ trang làm đời sống công nhân cực khổ => bùng nổ các cuộc đấu tranh của công nhân.
- Phong trào công nhân đòi cải thiện đời sống , đòi quyền tự do dân chủ ngày càng lan rộng, đặc biệt ở các nước tư bản tiên tiến như Anh, Pháp, Đức, Mĩ.
+ Tiêu biểu gần 40 vạn công nhân Chi-ca-gô ngày 1/5/1886 đòi lao động 8 giờ đã buộc giới chủ phải nhượng bộ. Ngày đó đi vào lịch sử là ngày Quốc tế lao động.
+ Nhiều đảng công nhân, đảng xã hội, nhóm công nhân tiến bộ được thành lập: Đảng công nhân xã hội dân chủ (1875), đảng công nhân xã hội Mĩ (1876), đảng công nhân Pháp (1879) nhóm giải phóng lao động Nga (1883).
- Yêu cầu thành lập một tổ chức Quốc tế mới để đoàn kết lực lượng công nhân các nước càng trở nên cấp thiết.
2. Quốc tế thứ hai (giảm tải)
- Hoàn cảnh ra đời
+ Chủ nghĩa tư bản phát triển ở giai đoạn cao, giai cấp tư sản tăng cường bóc lột nhân dân lao động.
+ Chính sách chạy đua vũ trang chuẩn bị phân chia lại thế giới dẫn đến đời sống nhân dân cực khổ.
+ Nhiều Đảng và tổ chức công nhân tiến bộ ra đời => 14/7/1889 Quốc tế thứ 2 thành lập ở Pari.
- Hoạt động quốc tế thứ 2:
+ Thông qua các Đại hội và nghị quyết; sự cần thiết thành lập chính đảng của giai cấp vô sản, đề cao đấu tranh chính trị.
- Vai trò: Hạn chế, ảnh hưởng các trào lưu cơ hội Chủ nghĩa vô chính phủ.
- Diễn ra cuộc đấu tranh giữa khuynh hướng Cách mạng và khuynh hướng cơ hội.
- Do thiếu nhất trí về đường lối chia rẽ về tổ chức, các đảng trong Quốc tế 2 xa dần đường lối đấu tranh Cách mạng, thỏa hiệp với giai cấp tư sản -> Quốc tế 2 tan rã.